ae888 112_ae888 cheap 228__ae888 soy 153_ae888 pink_ae888 co 38

Tiêu thụ thủy sản của Nhật Bản giảm trong năm 2021

Thị trường thế giới 08:47 15/06/2022
(xky12.com) Cơ quan Thủy sản Nhật Bản mới đây đã phát hành Báo cáo thủy sản thường niên để đánh giá xu hướng thủy sản của nước này năm 2021 và đặt ra các chính sách mới cho năm 2022.

Báo cáo cho thấy mức tiêu thụ thủy sản bình quân đầu người ở Nhật đã giảm trong hai thập kỷ qua: năm 2001 ở mức 40,2 kg, sau đó giảm dần xuống dưới mức tiêu thụ thịt bình quân đầu người vào năm 2011. Năm 2020 mức này giảm còn 23,4 kg, được báo cáo cho rằng nguyên nhân do người tiêu phải chịu mức giá cao và chi phí nhân công nấu nướng. Báo cáo cho thấy các nhãn điện tử phổ biến ở Nhật Bản là Hội đồng quản lý biển (MSC), Hội đồng Quản lý Nuôi trồng thủy sản (ASC) và Nhãn sinh thái biển (MEL). Tính đến cuối tháng 3/2022, MSC đã cấp chứng nhận bền vững cho 12 ngư trường tại Nhật Bản - nhiều gấp đôi năm trước đó - đối với sò điệp, cá ngừ bonito, cá ngừ albacore và hàu. Ngoài ra, 313 doanh nghiệp đã đạt được chứng nhận Quy trình Giám sát Nguồn gốc (CoC), nhiều hơn 13 doanh nghiệp so với trước đây. ASC đã chứng nhận cho 14 doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản đang vận hành 81 trại nuôi, đối với hàu, cá cam Nhật Bản cùng với 164 chứng chỉ CoC, tăng lần lượt 1 và 13 doanh nghiệp. MEL - một chứng nhận của Nhật Bản đã được công nhận Sáng kiến Thuỷ sản Bền vững Toàn cầu (GSSI) vào năm 2019 - đã chứng nhận 14 ngư trường bao gồm cá hồi sockeye, cá thu và nghêu shijimi; cũng như 53 doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản bao gồm cá cam Nhật Bản, cá tráp đỏ, cá hồi coho - mức tăng lần lượt là 7 và 12. Các chứng chỉ CoC của tiêu chuẩn đã tăng thêm 42 lên thành 100. Nhìn chung, MEL đã có mức tăng trưởng nhanh hơn MSC ở Nhật Bản.

Lượng hải sản nhập khẩu giảm 2,3% so với năm trước, nhưng tăng 10% về giá trị. Các loài có giá trị nhập khẩu cao nhất lần lượt là cá hồi nước mặn và cá hồi nước ngọt với 13,4%, c&aa𝓡cute; ngừ bonito và các loại cá ngừ khác là 11,6%, tôm là 11,1%, các sản phẩm tôm chế biến là 4,5%, cua ở mức 3,6%, cá tuyết là 3%, và mực ống ở mức 2,9%. Tỷ lệ tương đối không thay đổi nhiều trong vài năm qua ngay cả khi chịu ảnh hưởng của COVID-19.

Các nguồn cung cấp chính của Nhật Bản lần lượt theo tỷ trọng tổng giá trị, Trung Quốc ở mức 18%, Chile là 9,2%, Nga là 8,6%♛, Mỹ là 8,3%, Na Uy là 6,9%, Việt Nam là 6,7%, Thái Lan là 6,1%, Indonesia là 4,6% và Hàn Quốc là 4,4%.

Các loại hải sản xuất khẩu chính của Nhật Bản gồm sò điệp ở mức 21,2%, cá cam Nhật Bản ở mức 8,2%, cá thu ở mức 7,3%, cá ngừ bonito và các loại cá ngừ khác ở mức 6,8%, ngọc trai ở mức 5,7%, hải sâm chế biến ở mức 5,1%, chả cá ở mức 3,7% và sò điệp chế biến ở mức 2,7%. Thị trường nhập khẩu hàng đầu là Hồng Kông ở mức 22,1%, Trung Quốc ở mức 19,6%, Mỹ là 14%, Đài Loan ở mức 8,9%, Thái Lan là 6,8%, Việt Nam là 6,🔴8% và Hàn Quốc là 5,8%.

Sản lượng đánh bắt và nuôi trồng thủy sản của Nhật Bản đã giảm đều kể từ khi đạt đỉnh vào cuối những năm 1980, do nguồn dự trữ cá mòi (sardine) trong nước sụt giảm và việc hầu hết các nước thực hiện vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Một nguyên nhân khác là do sự suy giảm dân số và thiếu người kế nghiệp trong ngành đánh bắt cá. Kể từ khi ngành thủy sản sụp đổ, cá mòi đã có sự phục hồi nhẹ và giá trị nuôi trồng thủy sản tăng từ khoảng năm 2013 đến năm 2018, làm tăng số liệu tổng thể - nhưng sau đó, các số liệu này lại có xu hướng giảm. Dữ liệu trong năm đại dịch 2020 cho thấy thu nhập trung bình của một chủ tàu đánh cá tư nhân giảm khoảng 30% so với năm trước đó xuống chỉ còn 1,35 triệu yên (10.078 USD, 9.383 EUR) - bao gồm cả thu nhập ngoài nghề cá. Trung bình một công ty vận hành một tàu đánh cá hoặc cơ sở chế biến cá vào năm 2020 bị lỗ 9,58 triệu yên (71.482 USD, 67.305 EUR), bao gồm cả thu nhập từ ngoài nghề cá. Nuôi trồng thủy sản có kết quả tốt hơn với các nhà khai thác tư nhân kiếm được trung bình 5,27 triệu yên (39.322 USD, 37.025 EUR). Chi phí nhiên liệu đã tăng nhanh chóng đã khiến chính phủ phải trợ cấp giá. Sau khi giảm xuống khoảng 60 yên (45 USD, 42 EUR) mỗi lít vào năm 2020, dầu nặng đã tăng lên 109,1 yên (81 USD, 77 EUR) vào tháng 3/2022. Lực lượng lao động ngành thủy sản đang bị thu hẹp, mặc dù tỷ lệ lao động từ 39 tuổi trở xuống có xu hướng tăng rất chậm khi người cao tuổi nghỉ hưu. Năng suất trên mỗi lao động đã có hai bước tăng đáng kể: năm 2006 và 2007, ngành đánh bắt thủy sản ven biển có sản lượng khai thác mạnh, và từ năm 2013 đến 2016, doanh thu nuôi trồng thủy sản tăng trước khi có xu hướng giảm nhẹ. Chính phủ đang cố gắng khuyến khích tăng năng suất trong dài hạn bằng cách áp dụng công nghệ kỹ thuật số, trí tuệ nhân tạo và phương tiện bay không người lái vào nghề cá. Một ứng dụng cấp thiết là báo cáo kỹ thuật số theo thời gian thực về dữ liệu đánh bắt bằng máy tính bảng với việc sử dụng các tính toán Năng suất bền vững tối đa (MSY). Trước đây, dữ liệu được tích lũy ở cấp địa phương trên giấy, vào thời điểm dữ liệu được số hóa và phân tích, các nhà quản lý nghề cá thường làm việc từ dữ liệu của năm trước.

Đối với nuôi trồng thủy sản sẽ thực hiện giám sát môi trường và chuyển tiếp thông tin tự động, chẳng hạn như về thủy triều đỏ. Máy cho ăn tự động cũng sẽ theo dõi tốc độ tăng trưởng của cá để tối ưꦚuꦦ hóa chi phí thức ăn và tỷ lệ chuyển đổi.

Trong đánh bắt thủy sản, việc giám s&aacut✅e;t các điều kiện biển, chẳng hạn như bằng phao được trang bị cảm biến, sẽ dự đoán các ngư trường tốt nhất và các tuyến đường tiết kiệm năng lượng.

Trong hoàn cảnh số lượng ngư dân giảm, chính phủ khuyến♛ khích sáp nhập các hợp tác xã nghề cá địa phương để duy trì số lượng thành vi&ecir𒆙c;n hoạt động tối thiểu. Số hợp tác xã thủy sản được hợp nhất đã tăng vọt vào năm 2020 lên 63, sau thời gian tạm lắng khi sáp nhập trong thập kỷ trước.

Về mặt phân phối, số lượng chợ đầu mối tại các cảng cá ổn định nhưng lượng hà🎶;ng hoá bán qua chợ đầu mối tại các khu vực tiêu thụ ngày càng giảm do nhiều người mua như chuỗi nhà hàng, siêu thị đến mua trực tiếp.

Chế biến hải sản đã giảm trong hai thập kỷ, do sản lượng khai thác nguyên liệu thô trong nước thấp hơn. Chính phủ đang định hướng các sản phẩm thủy sản phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng bằng cách quảng bá những sản phẩm tiện lợi, dễ ăn và ít mùi tanh. Một ví dụ có thể là nước xốt cá không xương được đóng gói trong một túi lọc. Theo quy tắc chung, tất cả các doanh nghiệp thực phẩm, bao gồm cả các nhà chế biến thủy sản, phải được chứng nhận HACCP trước tháng 6/2021 và chính phủ đã hỗ trợ cải tạo các cơ sở cần thiết để đạt được điều này. Tính đến cuối tháng 3/2022, số nhà máy chế biến thủy sản đã được chứng nhận xuất khẩu sang Liên minh châu Âu (EU) là 101 nhà máy và sang Mỹ là 538. Nhật Bản cũng đang trong quá trình chuyển đổi nhiều loài từ hệ thống quản lý tổng nỗ lực cho phép (TAE) (ví dụ: thiết lập loại thiết bị và độ dài mùa vụ) sang hệ thống tổng sản lượng đánh bắt cho phép (TAC). Để làm được điều này cần có nhiều đánh giá tài nguyên hơn - bao gồm thiết lập MSY cho nhiều loài hơn. Trong năm tài chính 2021, số lượng loài cá được đánh giá nguồn lợi tăng từ 119 lên 192, sau đó chúng được phân loại theo tình trạng trữ lượng cao, trung bình hoặc thấp. Tình trạng thấp chiếm 56%, bao gồm lươn biển, cá quế, cá mú bảy sọc và cá nóc hổ. 18% các loài ở trạng thái cao bao gồm cá mòi, cá tuyết Thái Bình Dương, cá thu Tây Ban Nha và mực mũi tên. Nhật Bản cũng sẽ phân bổ hạn ngạch tàu cá nhân như đã thực hiện đối với cá thu và cá thu vạch , cá mòi ở Hokkaido, và cá ngừ vây xanh cỡ to. Từ năm tài chính 2022, hạn ngạch riêng lẻ sẽ được áp dụng cho các loài mũi nhọn do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản lựa chọn. Về nguyên tắc, từ năm 2023, IQ sẽ được áp dụng cho tất cả các loài mục tiêu do TAC quản lý. Các chính sách cho năm tài chính 2022 bao gồm:
  • Đối với quản lý nguồn lợi thủy sản: Tăng cường khảo sát và đánh giá trữ lượng, thúc đẩy chương trình quản lý mới, kiểm soát săn bắt trộm và quản lý thích ứng với sự thay đổi của môi trường.
  • Phát triển công nghiệp: Nâng cấp tàu cá và xây dựng nghề nuôi trồng thủy sản. Phát triển cảng cá để hỗ trợ xuất khẩu.
  • Hồi sinh các làng chài: Tăng cường quản lý các hợp tác xã nghề cá và thể hiện vai trò đa dạng của ngành ngư nghiệp và làng chài, chẳng hạn như bảo tồn hệ sinh thái.
  • Phát triển bền vững ngành khai thác thủy sản: Sử dụng công nghệ đánh bắt thông minh và giảm lượng khí thải carbon.

Mỹ Hạnh (Theo )

   

TIN MỚI CẬP NHẬT

Nuôi tôm: ngành công nghiệp thực phẩm tiềm năng, hướng tới phát triển bền vững

 |  08:26 08/08/2025
Báo cáo “Khai thác nguồn nước” do Ngân hàng Thế giới (WB) và WWF công bố khẳng định nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là nuôi tôm, là một trong những cơ hội đầu tư bền vững hàng đầu trong 25 năm tới. Ngành có thể tạo ra tới 22 triệu việc làm mới vào năm 2050, đồng thời cung cấp nguồn protein có phát thải khí nhà kính thấp nhất trong các loại hình sản xuất thực phẩm.

Thức ăn công nghệ cao - hướng đi mới cho an toàn sinh học trong sản xuất giống tôm

 |  08:25 08/08/2025
(xky12.com) Thức ăn công nghiệp công nghệ cao đang trở thành giải pháp tiềm năng thay thế thức ăn tươi sống trong sản xuất giống tôm, giúp tăng hiệu quả sinh sản và nâng cao an toàn sinh học.

DN xuất khẩu đang khó bán hàng tại chính thị trường trong nước

 |  08:23 08/08/2025
Thông tin trên được đại diện Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP) nêu lên khi đề cập việc các doanh nghiệp chuyên xuất khẩu đang khó bán hàng tại chính thị trường trong nước.

Bộ Công Thương đề xuất phương án ứng phó thuế quan Mỹ

 |  08:19 08/08/2025
Bộ Công Thương dự kiến ngày mai trình Thủ tướng các nhóm nhiệm vụ giao cho các bộ ngành để thích ứng với chính sách thuế quan của Mỹ.

Các nhà sản xuất châu Á duy trì lợi thế thị trường ở một số loại sản phẩm tôm, bất chấp bất lợi về thuế quan

 |  09:12 07/08/2025
(xky12.com) Thị trường tôm đang có nhiều biến động hơn vào tuần thứ 30 của năm 2025 (21- 27/7/2025), với giá cả tăng trên diện rộng.

Đồng Tháp: Thí điểm mô hình nuôi tôm sử dụng sinh khối, tiết kiệm năng lượng

 |  09:09 07/08/2025
Lần đầu tiên được áp dụng tại trang trại của Công ty TNHH Nuôi trồng thủy sản Tuấn Hiền (xã Tân Phú Đông, Đồng Tháp), mô hình nuôi tôm kết hợp sinh khối và công nghệ cao đang mở ra hướng phát triển bền vững cho ngành thủy sản địa phương.

Xuất khẩu mực, bạch tuộc sang Thái Lan bứt phá mạnh trong nửa đầu năm nay

 |  08:45 07/08/2025
(xky12.com) Trong nửa đầu năm 2025, xuất khẩu mực, bạch tuộc của Việt Nam sang Thái Lan ghi nhận bước tiến vượt bậc với kim ngạch đạt 33 triệu USD, tăng 37% so với cùng kỳ năm 2024. Thái Lan hiện là thị trường nhập khẩu đơn lẻ lớn thứ 4 của Việt Nam đối với nhóm sản phẩm này, chiếm 10% tổng giá trị xuất khẩu mực, bạch tuộc cả nước.

Cà Mau đặt mục tiêu phát triển nuôi cua thành ngành kinh tế mũi nhọn

 |  08:41 07/08/2025
Cà Mau xác định thế mạnh nuôi cua sẽ đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế đạt mức GRDP từ 8,5% trở lên trong năm 2025, tạo nền tảng vững chắc cho tăng trưởng hai con số trong những năm tiếp theo.

THÔNG CÁO BÁO CHÍ VIETFISH 2025 – TRIỂN LÃM SỐ 1 CHÂU Á CỦA NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM

 |  16:39 06/08/2025
Trong bối cảnh thị trường xuất khẩu đầy biến động, VIETFISH 2025 đánh dấu sự thay đổi mạnh mẽ với bộ nhận diện thương hiệu hoàn toàn mới.

VASEP - HIỆP HỘI CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM

Chịu trách nhiệm: Ông Nguyễn Hoài Nam - Phó Tổng thư ký Hiệp hội Đơn vị vận hành trang tin điện tử: Trung tâm VASEP.PRO Trưởng Ban Biên tập: Bà Phùng Thị Kim Thu Giấy phép hoạt động Trang thông tin điện tử tổng hợp số 138/GP-TTĐT, ngày 01/10/2013 của Bộ Thông tin và Truyền thông Tel: (+84 24) 3.7715055 – (ext.203); email: kimthu@xky12.com Trụ sở: Số 7 đường Nguyễn Quý Cảnh, Phường An Phú, Quận 2, Tp.Hồ Chí Minh Tel: (+84) 28.628.10430 - Fax: (+84) 28.628.10437 - Email: vasephcm@xky12.com VPĐD: số 10, Nguyễn Công Hoan, Ngọc Khánh, Ba Đình, Hà Nội Tel: (+84 24) 3.7715055 - Fax: (+84 24) 37715084 - Email: vasephn@xky12.com
© Copyright 2020 - Mọi hình thức sao chép phải được sự chấp thuận bằng văn bản của VASEP

DANH MỤC

{vua bet}|{bàn ngồi bệt}|{thiên hạ bet}|{ku19 bet}|{bàn chân bẹt ở trẻ}|{thiên hạ bet}|{8x betjili fishing bet}|{góc bẹt bao nhiêu độ}|{8x betjili fishing bet}|